Ngọc Ảnh Viện
Dải Băng Lấm Tấm
Tác giả: Sir Arthur Conan Doyle
Trong khi đang duyệt qua những ghi chú về bảy mươi vụ việc lạ lùng mà tôi đã tham gia trong suốt tám năm nghiên cứu những phương pháp của bạn tôi Sherlock Holmes, tôi nhận thấy nhiều tấn bi kịch, đôi vụ bi hài, một số lượng lớn thuần túy là quái đản, nhưng không vụ nào bình thường; vì, làm việc như cái cách anh ấy đã thực hiện thì nó để dành tình yêu với nghệ thuật của ảnh hơn là vì việc thu thập của cải, anh từ chối dự mình vào bất kì cuộc điều ra nào mà không có chiều hướng dẫn đến những sự bất thường, và thậm chí là sự phi thường. Trong tất cả đa dạng những vụ này, dù sao thì, tôi không thể gợi ra bất kì vụ nào mà hiện hữu trong nó nhiều yếu tố kì lạ hơn vụ mà liên can đến gia đình nổi-danh ở vùng Surrey, dòng họ Roylotts ở dinh thự Stoke Moran. Vụ việc tôi vừa nêu xảy ra trong những ngày tháng đầu của việc cộng tác của tôi với Holmes, khi chúng tôi thuê chung phòng trọ lúc còn là mấy anh độc thân ở Phố Baker. Đúng là có khả năng rằng tôi có thể đã cho chúng lên bộ hồ sơ từ trước, nhưng một lời hứa bảo mật đã được tuyên thệ ở thời điểm đó, mà tôi chỉ vừa mới được giải phóng khỏi nó vào tháng vừa rồi bởi vì cái chết không được báo trước của người phụ nữ mà lời tuyên thệ vốn là dành cho bà. Giờ có lẽ cũng đến lúc mà những sự thật nên được đưa ra ánh sáng, vì tôi có những duyên cớ để biết rằng đang có những lời đồn thổi được lan rộng về cái chết của Bác Sĩ Grimnesby Roylott mà chúng có xu hướng khiến cho sự tình thậm chí còn tồi tệ hơn là sự thật.
Đấy là khoảng đầu tháng Tư năm 83 (1883) mà tôi thức dậy sớm mai nọ nhận ra rằng Sherlock Holmes đang đứng, quần áo chỉnh tề, bên cạnh giường mình. Anh là một kẻ dậy muộn, như một lệ thường, và vì cái đồng hồ trên bệ lò sưởi báo tôi rằng nó mới chỉ bảy giờ mười lăm phút, tôi nhấp nháy mắt về phía anh trong đôi sự ngạc nhiên, và có lẽ là một chút bất bình, vì bản thân tôi thường giữ ổn định thói quen của mình.
"Rất xin lỗi đã dựng anh dậy, Watson," anh nói, "nhưng nó đúng thật là nhà chung vào sáng nay. Bà Hudson bị dựng dậy, bà ấy quạu quọ đổ lên đầu tôi, và giờ tôi đổ lên đầu anh.
"Vậy nó là gì, nào--một vụ hỏa hoạn?"
"Không; một khách hàng. Trông như là người phụ nữ trẻ đã đến trong một trạng thái phấn khích đáng kể, người khăng khăng về việc gặp tôi. Cô ấy đang chờ trong phòng đón khách. Hiện thời, khi mà mấy quý cô trẻ du hành quanh phố thị vào cái giờ này của buổi sáng, và dựng hết mấy người ngái ngủ khỏi mấy chiếc giường của họ, tôi đồ rằng đấy phải là việc gì đó rất cấp bách mà họ phải liên hệ ngay. Điều đó chứng tỏ đây sẽ một vụ việc gây hứng thú, anh sẽ, tôi chắc chắn, mong muốn theo dõi nó từ lúc bắt đầu. Tôi nghĩ, với giá nào, thì tôi nên gọi anh và trao anh cơ hội."
"Đồng bạn thân mến, tôi sẽ không bỏ lỡ nó vì bất cứ thứ gì."
Tôi không có niềm hân hạnh nào phấn khởi hơn theo chân Holmes trong mấy vụ điều tra chuyên nghiệp của anh, và trong sự ngưỡng mộ những lập luận tức thì, nhanh như trực giác vậy, và vẫn luôn luôn được ngộ ra dựa trên cơ sở mang tính lô-gích mà với nó anh tháo gỡ những vấn đề được đưa đến cho mình. Tôi nhanh chóng thay quần áo và sẵn sàng trong vài phút để đồng hành bạn tôi xuống căn phòng đón-khách. Một người phụ nữ mặc phục sức màu đen và che mạng một cách kín đáo, người đang ngồi kề cửa sổ, đứng dậy khi chúng tôi bước vào.
"Buổi sáng tốt lành, thưa quý bà," Holmes nói một cách tươi vui. "Tên tôi là Sherlock Holmes. Đây là người bạn thân và cộng sự của tôi, Bác Sĩ Watson, là người mà trước mặt anh bà có thể trò chuyện được tự do như khi với tôi. À! Tôi mừng khi thấy Bà Hudson đã rất có lòng khi châm lửa lò sưởi. Xin hãy lại gần nó, và tôi nên gọi cho bà một tách cà phê nóng, vì tôi quan sát thấy bà đang run rẩy."
"Không phải vì lạnh mà khiến tôi run rẩy." người phụ nữ nói bằng một giọng thấp, đổi chỗ ngồi của mình như được yêu cầu.
"Vậy, vấn đề là gì?"
"Là nỗi sợ, Ngài Holmes. Là sự kinh hoàng." Chị vén tấm mạng của mình lên khi nói, và chúng tôi có thể thấy rằng chị thực sự đang trong tình trạng kích động đáng thương, gương mặt chị căng thẳng và xám xịt, cùng đôi mắt sợ hãi không ngừng, như thể chúng thuộc về loài thú bị săn đuổi nào đó. Gương mặt và vóc dáng của chị là của lứa phụ nữ tuổi ba mươi, nhưng tóc ngắn cùng màu chớm bạc, và điệu bộ thì mệt mỏi và tiều tụy. Sherlock Holmes lướt nhanh qua chị bằng một trong những ánh nhìn nhanh, bao quát của anh.
"Chị không được sợ." anh nói một cách trấn an, cúi người về trước và vỗ vỗ lên cánh tay chị. "Chúng ta sẽ sớm xử lý ổn thỏa các vấn đề thôi, tôi không có chút nghi ngờ nào. Chị đã đến đây bằng tàu hỏa sáng nay, tôi thấy vậy."
"Ngài biết tôi, thật sao?"
"Không, nhưng tôi quan sát thấy nửa còn lại của chiếc vé khứ hồi nằm ở lòng trong của chiếc găng tay bên trái của chị. Chị hẳn phải bắt đầu từ sớm, và rồi chị còn có một chuyến đi đầy nỗ lực trong một cỗ-xe-chó-kéo suốt những con đường gồ ghề, trước khi chị đến được ga tàu."
Người phụ nữ giật nảy cả mình và nhìn chằm chặp vào người đồng đội của tôi cùng vẻ hoang mang.
"Không có bí ẩn gì ở đây cả, quý chị thân mến của tôi," anh nói, đang mỉm cười. "Ống tay bên trái áo khoác chị bị bùn vấy lên ở không dưới bảy chỗ. Những vệt để lại còn mới hoàn toàn. Không có phương tiện nào ngoài một cỗ xe chó-kéo mà làm văng bùn theo lối đó, và nữa là chỉ khi chị ngồi bên phía tay trái của người tài xế."
"Dù lý lẽ của ngài có là gì, ngài chính xác một cách hoàn hảo," chị nói. "Tôi bắt đầu từ nhà trước sáu giờ, đến Leatherhead sau hai mươi phút, và đến đây bằng chuyến tàu đầu tiên đi Waterloo. Thưa ngài, tôi không thể chịu đựng sự căng thẳng này thêm nữa; tôi sẽ phát điên mất nếu nó tiếp diễn. Tôi không có ai để trông vào--không ai, ngoại trừ chỉ một, người quan tâm đến tôi, và anh ấy, người đồng bạn tội nghiệp, chỉ có thể giúp đỡ đôi chút. Tôi đã được nghe về anh, Ngài Holmes; tôi được nghe về anh từ bà Farintosh, người mà anh đã giúp trong những giờ phút đau buồn cần ai đó nhất của bà ấy. Từ chỗ bà ấy mà tôi có địa chỉ của anh. Ôi, thưa ngài, anh có không nghĩ rằng anh có thể giúp tôi, như vậy không, và ít nhất là thảy một đốm lửa sáng qua màn đêm đặc quánh đang bao vây tôi? Vào thời điểm hiện tại nó quả là quá quyền hạn của tôi để tưởng thưởng anh cho những việc anh làm, nhưng trong một tháng hay sáu tuần tôi sẽ kết hôn, cùng quyền kiểm soát thu nhập riêng của mình, và lúc ấy ít nhất thì anh sẽ không thấy tôi vô ơn."
Holmes quay sang cái bàn của mình, mở khóa nó, lấy ra một tập hồ sơ vụ việc nhỏ, mà anh đã tư vấn.
"Farintosh," anh nói. "À vâng, tôi nhớ ra vụ ấy; việc liên quan đến một cái vương miện bằng đá mắt mèo. Tôi nhớ nó là trước khi anh đến, Watson. Tôi chỉ có thể nói, thưa quý chị, rằng tôi sẽ rất hân hạnh được dành một sự săn sóc tương tự cho vụ việc của chị như tôi đã làm với việc của bạn chị. Và về việc tưởng thưởng, chuyên nghề của tôi tự bản thân nó đã là sự tưởng thưởng; nhưng chị có sự tự do để trang trải bất kì chi phí phát sinh nào mà tôi có thể bị đưa vào thế phải trả, vào thời gian nào thuận tiện cho chị nhất. Và giờ tôi mong rằng chị sẽ bày trước mặt chúng tôi mọi thứ mà có thể giúp chúng tôi trong việc hình thành một ý kiến về vấn đề."
"Than ôi! vị khách của chúng tôi đáp lại, "cái sự kinh sợ khủng khiếp trong tình cảnh của tôi nằm ở sự thật là những nỗi ám ảnh của tôi thật quá mơ hồ, và những niềm nghi ngờ của tôi lệ thuộc đến mức hoàn toàn trên những chi tiết nhỏ, mà có thể trông chẳng là gì đối với người khác, rằng thậm chí anh ấy, người mà trong mọi kẻ khác tôi có quyền tìm kiếm sự giúp đỡ và lời khuyên, xem xét mọi điều mà tôi đã tâm sự với anh ấy như là những ảo tưởng của một người phụ nữ âu lo. Anh ấy không nói đúng như vậy, nhưng tôi có thể đọc ra điều đó từ những câu trả lời dịu nhẹ và cặp mắt lảng đi. Nhưng như tôi đã nghe, Ngài Holmes, rằng anh có thể nhìn sâu sắc vào cái sự xảo quyệt đa hình của trái tim con người. Anh có thể khuyên tôi làm cách nào đi xuyên qua những hiểm nguy đang vây lấy tôi."
"Tôi đang rất chú tâm, thưa quý chị."
"Tên tôi là Helen Stoner, và tôi đang sống cùng với cha dượng của mình, người là hậu duệ sống sót sau cùng của một trong những gia tộc dòng Saxon lâu đời nhất ở Anh Quốc, họ Roylotts của dinh thự Stoke Moran, ở trên vành đai phía Tây Surrey."
Holmes gật đầu mình. "Cái tên nghe quen thuộc với tôi," anh nói.
"Gia tộc đã có thời thuộc tầng lớp giàu có nhất ở Anh Quốc, và những bất động sản mở rộng khắp những vành đai vào tận Berkshire ở phía bắc, và Hampshire ở phía tây. Vào cuối thế kỉ trước, dù sao thì, bốn hậu duệ liên tiếp đúng là thể loại có khuynh hướng phóng đãng và tiêu hoang, và sự suy tàn của dòng họ cuối cùng thì cũng thành toàn bởi một tay cờ bạc vào những tháng năm của thời kì Nhiếp Chính. Chẳng còn gì để lại ngoài một vài mẫu đất, và ngôi nhà hai-trăm-năm-tuổi-đời, mà tự thân nó bị nghiền dưới một bản thế chấp nặng nề. Người địa chủ cuối cùng níu kéo sự tồn tại của ông ta ở đó, sống một cuộc đời kinh khủng của một quý tộc nghèo mạt; nhưng con trai duy nhất của ông ta, người cha dượng của tôi, nhận thấy rằng ông phải thích nghi bản thân với những điều kiện mới, nhận được một khoản ứng trước từ một người họ hàng, mà cho phép ông lấy một tấm bằng y khoa và dời đến Calcutta, nơi mà, bằng những kĩ năng chuyên môn và sự minh mẫn trong hành động, ông đã gầy dựng nên một ca lớn. Trong cơn cuồng nộ, dù sao thì, gây nên bởi vài tên trộm đã đột nhập vào trong căn nhà, ông đập người quản gia bản xứ đến chết và chỉ trong gang tấc thoát khỏi một bản án tử hình. Cứ như thế, ông ta chịu một án tù dài đằng đẵng và sau đó quay trở lại Anh Quốc như một người đàn ông chán đời và thất đắc chí.
"Khi Bác Sĩ Roylott ở Ấn Độ ông ta đã cưới mẹ tôi, Quý Bà Stoner, người góa phụ trẻ của Thiếu-Tướng Stoner, thuộc lực lượng pháo binh xứ Bengal. Chị gái Julia và tôi là chị em sinh đôi, và chúng tôi chỉ mới hai tuổi vào thời điểm diễn ra cuộc tái-hôn của mẹ tôi. Bà ấy có một món tiền đáng kể--không ít hơn 1000 bảng một năm--và số này bà đã giao phó lại toàn bộ cho Bác Sĩ Roylott khi chúng tôi ở cùng ông ta, cùng một điều kiện rằng một khoản thường niên sẽ được trao cho mỗi chúng tôi khi cuộc hôn nhân của mỗi người diễn ra. Không lâu sau chuyến trở về Anh Quốc của cả nhà mẹ chúng tôi qua đời--bà vong mạng tám năm trước trong một vụ tai nạn chốn đường tàu gần Crewe. Bác Sĩ Roylott từ đấy bỏ dở những nỗ lực để củng cố tay nghề y khoa của mình ở Luân Đôn và mang chúng tôi đến sống cùng ông tại một ngôi nhà cũ của tổ tiên tại dinh thự Stoke Moran. Khoản tiền mà mẹ tôi để lại là đủ cho tất cả những nhu cầu của chúng tôi, và trông như là chẳng có trắc trở nào với niềm hạnh phúc của chúng tôi.
"Nhưng một sự thay đổi kinh khủng đã đến với cha dượng của chúng tôi quanh khoảng thời gian này. Thay vì kết bạn kết bè và qua lại thăm nom với những hàng xóm của chúng tôi, những người mà thoạt tiên quá mừng rỡ được thấy một người Roylott của Stoke Moran trở về với nơi xưa chốn cũ của gia đình, ông ta nhốt mình trong căn nhà và hiếm khi ra ngoài ngoại trừ để đắm mình vào những cuộc cãi vã hung tợn cùng bất kì ai chẳng may đi ngang con đường của mình. Sự hung bạo của tâm tính chạm đến tầm hưng cảm đã được truyền thừa trong những người đàn ông của gia đình, và trong trường hợp của cha dượng tôi thì nó đã, tôi tin là, đã bị gia tăng bởi một khoảng thời gian cư trú dài hạn nơi vùng nhiệt đới. Một chuỗi những cuộc ẩu đả đáng xấu hổ đã diễn ra, hai trong số đó kết cục tại tòa cảnh sát, đến khi cuối cùng thì ông ta trở thành nỗi ghê sợ của cả làng, và người dân quanh đấy sẽ bay biến ngay khi ông tiếp cận, vì ông ta là một người đàn ông có sức vóc to lớn, và hoàn toàn không thể kiểm soát trong cơn cuồng nộ của mình.
"Tuần trước ông ta đã liệng một người thợ rèn bản địa khỏi một cái lan can vào trong một dòng suối, và chỉ bằng cách chi trả toàn bộ số tiền mà tôi có thể thu gom mà tôi đã tránh được thêm một vụ tai tiếng giữa công cộng. Ông ta chẳng có lấy người bạn nào ngoại trừ những người giýp-si du mục, và ông sẽ cho những kẻ lãng du đó rời đi để cắm trại phía trên vài mẫu đất được phủ bởi bụi gai mà đại diện cho tài sản của gia đình, và sẽ chấp nhận ở chiều ngược lại sự đón tiếp nơi mấy căn lều của họ, lang thang khắp chốn cùng họ đôi lần trong vài tuần liền. Ông cũng có một niềm đam mê với thú vật Ấn Độ, đám được gửi đến chỗ ông bởi một người phóng viên, và ông có tại thời điểm này một con báo và một con khỉ đầu chó, mà lang thang tự do khắp lãnh địa của ông và chịu sự khiếp hãi của dân làng gần y như khi đối với chủ nhân của chúng vậy.
"Anh có thể tưởng tượng từ những gì tôi nói rằng chị gái Julia và tôi đã không có một niềm hân hạnh to lớn nào trong cuộc sống của mình. Không người hầu nào dám sống cùng chúng tôi, và trong một thời gian dài chúng tôi làm mọi việc trong căn nhà. Chị ấy độ ba mươi tại thời điểm cái chết của mình, và lúc đó tóc chị đã bắt đầu bạc trắng rồi, thậm chí như tóc của tôi."
"Chị của chị đã mất, và rồi?"
"Chị ấy mất chỉ mới hai năm trước, và bởi vì cái chết của chị mà tôi mới mong được nói chuyện với anh. Anh có thể hiểu được chuyện đó, sống một cuộc sống mà tôi đã mô tả, chúng tôi ít có khả năng thấy được ai đó tầm độ tuổi mình và vị thế như vậy. Chúng tôi có, dù sao thì, một người dì, là em gái của mẹ tôi thời con gái, Quý Cô Honoria Westphail. người sống gần khu Harrow, và chúng tôi thỉnh thoảng được cho phép làm một chuyến viếng thăm ngắn ngày ở nhà người phụ nữ này. Julia đến đó vào dịp Giáng Sinh hai năm trước, và gặp gỡ một thượng sĩ thủy quân lục chiến ăn nửa lương, người mà chị đính hôn. Cha dượng của chúng tôi biết về việc đính ước khi chị tôi trở về và đề nghị không có sự phản đối nào với cuộc hôn nhân; nhưng trong vòng 2 tuần trước cái ngày đã được ấn định cho lễ cưới, một sự kiện kinh khủng đã xảy ra mà đã tước đi khỏi tôi người đồng bạn duy nhất của mình."
Sherlock Holmes vẫn đang ngả người ra sau trong cái ghế của anh với đôi mắt nhắm và cái đầu thì nghập trong một cái gối, nhưng anh nửa mở hờ mí mắt mình lúc này và liếc qua về phía vị khách của mình.
"Xin hãy thật chính xác về các chi tiết," anh nói.
"Việc ấy rất dễ dàng cho tôi, vì mọi sự kiện của khoảng thời gian kinh hoàng đó đã hằn sâu vào kí ức tôi. Khu dinh-thự, như tôi đã nói, rất xưa, và chỉ có một cánh là giờ dùng để ở. Mấy căn phòng ngủ ở cánh này nằm tại tầng trệt, phòng đón-khách tọa lạc tại khối phòng trung tâm của các tòa nhà. Trong số mấy phòng ngủ đó thì cái đầu tiên của Bác Sĩ Roylott, cái thứ hai của chị gái tôi, và cái thứ ba của tôi. Không có lối thông nhau giữa chúng, nhưng chúng đều mở ra vào trong cùng một hành lang. Tôi có đang tỏ ra dễ hiểu?"
"Có một cách hoàn hảo."
"Những cánh cửa sổ của ba căn phòng thì mở ra phía trên bãi cỏ. Đêm thương vong ấy Bác Sĩ Roylott đã về phòng của mình sớm, dù chúng tôi biết rằng ông ta không đi nằm để nghỉ ngơi, vì chị tôi bị làm khó bởi cái mùi của một loại thuốc lá Ấn Độ nặng mùi mà là điều chế riêng của ông ta để hút. Chị rời khỏi phòng mình, vì thế, và vào phòng tôi, nơi chị ngồi trong ít lâu, buôn chuyện đôi điều về đám cưới đang đến gần của mình. Vào mười một giờ chị đứng lên để rời khỏi tôi, nhưng chị dừng nơi ngưỡng cửa và nhìn lại.
"'Nói chị nghe, Helen,' chị nói, 'em có từng nghe ai đó huýt sáo trong màn đêm chết lặng?'
"'Chưa bao giờ,' tôi nói.
"'Chị nghĩ là em không thể huýt sáo, chính em, trong giấc ngủ của mình phải không?'
"'Chắc chắn không. Nhưng tại sao chứ?'
"'Bởi vì trong suốt mấy đêm vừa rồi chị luôn luôn, khoảng ba giờ sáng, nghe một tiếng huýt sáo thấp, rõ rệt. Chị là một kẻ ngủ nông, và nó đã đánh thức chị. Chị không thể nói từ đâu mà nó lan tới--có lẽ từ căn phòng kế bên, có lẽ từ bãi cỏ. Chị nghĩ rằng mình sẽ chỉ hỏi xem em có từng nghe thấy nó hay không.'
"'Không, em đã không. Nó hẳn là từ mấy người giýp-si bần hàn ở khu đồn điền.'
"'Rất có thể là vậy. Và rằng nếu nó ở phía trên bãi cỏ, chị thắc mắc sao em không cùng nghe thấy nó.'
"'À, nhưng em ngủ sâu hơn chị mà.'
"'Vậy thì, nó cũng không đem lại hậu quả lớn nào, với giá nào.' Chị cười với tôi, đóng cửa phòng tôi, và một vài khoảnh khắc sau tôi nghe tiếng chìa khóa của chị tra trong ổ."
"Thật sao," Holmes nói. "Đó là thói quen của các chị khóa mình lại trong đêm sao?"
"Luôn luôn."
"Và tại sao?"
"Tôi nhớ là tôi đã nói với anh rằng ông bác sĩ nuôi một con báo và một con khỉ đầu chó. Chúng tôi không có chút cảm giác an toàn nào trừ khi cửa phòng chúng tôi được khóa lại."
"Đúng vậy. Xin hãy tiếp tục với phần trình bày của mình."
"Tôi không thể ngủ đêm đó. Một cảm xúc mơ hồ về nỗi bất hạnh đang ập đến đã gây ấn tượng lên tôi. Chị gái và tôi, anh nên nhớ, là một cặp sinh đôi, và anh biết những mối liên kết ấy tinh tế đến mức nào mà buộc chặt hai linh hồn vốn đã kết đoàn vô cùng thân cận. Đó là một đêm hoang tàn. Gió đang hú bên ngoài, và cơn mưa đang đập vào và tung tóe lên những cánh cửa sổ. Đột nhiên, giữa những gào rú của cơn gió, nổ ra một tiếng thét hoang dại của một người phụ nữ bị dọa chết khiếp. Tôi biết rằng đấy là giọng của chị mình. Tôi nhảy nhổm khỏi giường mình, quấn một cái khăn choàng quanh mình, và lao nhanh vào hành lang. Khi tôi mở cửa phòng mình tôi thấy có vẻ như nghe được một tiếng huýt sáo thấp, đúng như chị tôi đã mô tả, và một vài khoảnh khắc sau một âm thanh vang dội, như thể một khối kim loại vừa đổ xuống. Khi tôi chạy xuống lối đi, cửa phòng chị tôi đang không khóa, và quay từ từ trên những bản lề của nó. Tôi nhìn nó chằm chặp sợ-đến-cứng-đờ, không biết chuyện gì sẽ xảy ra từ đó. Nhờ ánh sáng của cái đèn hành lang tôi thấy chị mình hiện ra nơi ngưỡng cửa, gương mặt chị tái nhợt cùng nỗi kinh sợ, đôi tay chị quờ quạng tìm sự giúp đỡ, cả thân người chị giật và lắc như một kẻ say khướt. Tôi chạy đến bên và choàng tay quanh chị, nhưng ngay khoảnh khắc đó đầu gối chị trông như vô lực và chị ngã lăn ra đất. Chị quằn quại như một người trong cơn đau đớn khủng khiếp, và tứ chi chị co quắp một cách kinh hoàng. Thoạt tiên tôi nghĩ rằng chị đã không nhận ra tôi, nhưng khi tôi gập người xuống phía chị, chị đột nhiên rít lên bằng một giọng mà tôi sẽ không bao giờ quên, 'Ôi, Chúa tôi! Helen em! Nó là một dải băng! Một dải băng lấm tấm!' Có điều gì đó khác mà chị rất muốn nói, và chị trỏ ngón tay mình vào hư không theo hướng về phía căn phòng ông bác sĩ, nhưng một cơn co thắt đã chế ngự chị và chặn họng chị. Tôi lao ra ngoài, lớn tiếng cầu khẩn cha dượng của mình, và tôi gặp ông ta vội vã từ phòng ra trong bộ áo choàng ngủ. Khi ông đến bên cạnh chị tôi chị đã mất ý thức, và dù ông đã đổ rượu chát mạnh xuống cổ họng chị và gửi nhờ vào sự hỗ trợ y tế từ làng, mọi nỗ lực trôi vào hư không, vì chị từ từ lả đi và qua đời mà không kịp lấy lại ý thức của mình. Thật là một kết cục kinh hoàng của người chị yêu dấu của tôi."
"Một lúc thôi," Holmes nói, "chị có chắc về tiếng huýt sáo và âm thanh kim loại này chứ? Chị có thể thề nguyện về nó chứ?"
"Đó là điều mà điều tra viên của hạt đã hỏi tôi trong buổi thẩm vấn. Có một ấn tượng mạnh mẽ rằng tôi đã nghe thấy nó, và dù gì, giữa những tiếng va chạm của cơn cuồng phong và tiếng kẽo kẹt của ngôi nhà cũ, tôi có thể có khả năng đã bị lừa mị."
"Chị của chị đã ăn vận đàng hoàng chứ?"
"Không, chị ấy đang trong phục trang đi ngủ của mình. Trong tay phải chị người ta tìm thấy mẩu cháy đen của một que diêm, và trong tay trái chị là một hộp-diêm."
"Cho thấy rằng chị ấy đã thắp lên nguồn sáng và nhìn quanh mình khi cơn báo động diễn ra. Việc đó quan trọng. Và người điều tra viên đã đi đến những kết luận nào?"
"Ông ấy điều tra vụ việc với sự quan tâm lớn, vì hành vi của Bác Sĩ Roylott đã nổi tai tiếng khắp hạt từ lâu, nhưng ông ấy không thể tìm thấy bất kì một nguyên cớ thỏa đáng nào của cái chết. Chứng cứ của tôi cho thấy rằng cánh cửa đã được khóa chặt từ phía trong, và những cánh cửa sổ được chặn lại bằng cái cửa chớp kiểu cũ với mấy thanh sắt rộng, mà được đóng chặt hàng đêm. Mấy bức tường được cách âm cẩn thận, và tỏ ra khá cứng chắc khắp lượt, và sàn nhà cũng được kiểm xét kĩ lưỡng, với chung một kết quả. Ống khói thì rộng, nhưng được chắn ngang bởi bốn cái mấu sắt. Chắc chắn là, như vậy, chị gái tôi đã gần như một mình khi chị đối diện với kết thúc của mình. Bên cạnh đó, không có dấu hiệu nào của bạo lực được sử dụng lên chị ấy."
"Còn chất độc thì sao?"
"Những bác sĩ đã khám nghiệm chị vì chúng, nhưng không thành công."
"Chị nghĩ người phụ nữ bất hạnh này đã chết vì thứ gì, nếu thế?"
"Niềm tin của tôi là chị mất vì nỗi sợ thuần túy và cơn sốc khi lo sợ, dù thứ gì mà đã dọa chết khiếp chị ấy tôi không thể hình dung ra."
"Những người giýp-si có ở khu đồn điền vào thời điểm đó?"
"Vâng, gần như luôn luôn có vài người ở đó."
"À, và chị nghĩ ra được gì từ cái ảo ảnh về một dải băng này--một dải băng lấm tấm?"
"Đôi lúc tôi đã nghĩ rằng đấy đơn thuần là cuộc nói chuyện hoang đường của cơn mê sảng, đôi lúc thì việc đó có thể có liên hệ đến dải băng nào đó của người ta, có lẽ thuộc về chính mấy người giýp-si nơi khu đồn điền đó. Tôi không biết liệu có phải mấy cái khăn tay lốm đốm mà rất nhiều người trong số họ đội trên đầu mình có thể đã gợi ý đến tính từ lạ lùng mà chị đã dùng hay không."
Holmes lắc đầu anh như một người hãy còn xa khỏi việc được toại ý.
"Chúng quả là rất bí ẩn," anh nói; "xin hãy tiếp tục với chuyện kể của chị."
"Hai năm đã trôi qua từ đó, và cuộc đời tôi đến tận gần đây lại càng cô đơn hơn bao giờ hết. Một tháng trước, dù sao thì, một người bạn thân mến, người mà tôi đã quen biết trong nhiều năm, đã cho tôi cái vinh dự được đưa tay ra đeo nhẫn đính ước. Tên anh ấy là Armitage--Percy Armitage--con trai thứ hai của Ngài Armitage, của vùng Crane Water, gần Reading. Cha dượng tôi đã không đề đạt ý đối nghịch nào với cuộc hôn phối, và chúng tôi sẽ kết hôn vào mùa xuân. Hai ngày trước vài sửa đổi đã được bắt đầu bên cánh phía tây của tòa nhà, và tường phòng ngủ của tôi đã bị đục thủng, nên rằng tôi phải chuyển vào căn buồng mà chị tôi qua đời, và ngủ trên chính cái giường mà chị từng ngủ. Hãy tưởng tượng xem, sau đó, sự rùng mình bất chợt của nỗi sợ đêm qua, khi tôi nằm tỉnh thức, đang nghĩ về số phận kinh khủng của chị, tôi đột nhiên nghe thấy trong sự tịch mịch của màn đêm một tiếng sáo thấp mà từng là sứ giả của cái chết của chị. Tôi nhảy nhổm dậy và thắp sáng đèn, nhưng chẳng có gì được tìm thấy trong căn phòng cả. Tôi quá run sợ để quay lại giường lần nữa, dù sao đi nữa, nên tôi thay phục trang, và sớm nhất có thể khi ánh ban mai đến tôi trượt xuống, gọi một cỗ xe chó-kéo ở lữ quán Crown, mà nằm đối diện, và lái đi đến Leatherhead, từ đó tôi đã đi đến trong sáng nay với một mục đích gặp được anh và hỏi han lời khuyên của anh."
"Chị đã hành động khôn ngoan," bạn tôi nói. "Nhưng chị đã kể hết mọi điều cho tôi chưa?"
"Vâng, mọi điều."
"Quý Chị Roylott, chị hẵng chưa. Chị đang che giấu cho cha dượng của mình."
"Sao, anh có ý gì?"
Để trả lời Holmes vén ngược tấm diềm ren đen phủ lên bàn tay đang đặt lên đầu gối vị khách của chúng tôi. Năm đốm bầm xanh nhỏ, dấu vết của bốn ngón tay và một ngón cái, được in lên trên cái cổ tay trắng.
"Chị đã bị lạm dụng một cách man rợ," Holmes nói.
Người phụ nữ đổi màu tâm trạng một cách sâu sắc và che đi cổ tay bị thương của mình. "Ông ta là một kẻ hà khắc," chị nói, "và có lẽ ông ta khó mà ý thức được về sức mạnh của mình."
Có một sự im lặng kéo dài, trong suốt lúc ấy Holmes tựa cằm mình lên trên đôi tay anh và nhìn chằm chặp vào đống lửa nổ lách tách.
"Đây là một vụ việc rất hệ trọng," cuối cùng anh cũng nói. "Có cả ngàn chi tiết mà tôi khao khát được biết trước khi tôi quyết định về những chuỗi hành động của chúng tôi. Nên chúng ta không có một khoảnh khắc nào để mất cả. Nếu chúng ta đến Stoke Moran hôm-nay, liệu có khả thi cho chúng tôi được xem xét khắp mấy căn phòng đó nhưng tránh khỏi sự nhận biết của cha dượng chị không?"
"Khi việc diễn ra, ông ta nói về việc vào thị trấn trong hôm nay vì đôi sự vụ quan trọng nhất. Nó có khả năng là ông ta sẽ ở ngoài xa cả ngày, và thế thì sẽ không có gì làm phiền các anh. Chúng tôi giờ có một người quản gia, nhưng bà ta già rồi và đần độn, và tôi có thể dễ dàng đuổi bà ấy khỏi tầm hoạt động."
"Tuyệt lắm. Anh không phản đối chuyến đi này chứ, Watson?"
"Chẳng có lý nào."
"Vậy chúng ta nên cùng đến. Chị sẽ làm gì với bản thân mình?"
"Tôi có một hay hai việc mà tôi mong được làm bây giờ vì tôi đang trong phố thị. Nhưng tôi nên trở về bằng chuyến tàu lúc mười hai giờ, để có thể ở đó vào thời điểm chuyến viếng thăm của các anh."
"Và chị có thể trông rằng chúng tôi đến vào đầu giờ chiều. Tôi có cho mình vài vấn đề công vụ nho nhỏ cần dự vào. Chị sẽ không đợi và làm chút bữa sáng ư?"
"Không, tôi phải đi. Trái tim tôi đã được thắp sáng rồi từ khi tôi đã thổ lộ rắc rối của mình với các anh. Tôi sẽ trông chờ việc thấy các anh trở lại vào chiều nay." Chị thả tấm mạng đen dày rủ xuống mặt mình và lướt ra từ phòng.
"Và anh nghĩ tất cả chuyện này là gì, Watson?" Sherlock Holmes hỏi, ngả người ra sau trong cái ghế của mình.
"Nó đối với tôi trông như một công việc đen tối và nham hiểm nhất."
"Đủ đen tối và đủ nham hiểm."
"Tuy nhiên nếu người phụ nữ chính xác khi nói rằng nền nhà và tường đều vững chãi, và rằng cánh cửa, cửa sổ, và ống khói đều không thể vượt qua, vậy thì chị cô ấy phải trong tình trạng cô đơn không thể nghi ngờ khi chị ấy đối diện với kết cục đầy bí ẩn của mình."
"Vậy thì, những tiếng huýt sáo về đêm này, và những lời lẽ rất kì lạ của người phụ nữ đang hấp hối sẽ là gì?"
"Tôi không thể nghĩ."
"Khi anh kết hợp những ý tưởng về những tiếng huýt sáo về đêm, sự hiện diện của một đám người giýp-si những kẻ mà có vài quan hệ thân thiết với tay bác sĩ già, sự thật rằng chúng ta có mọi lý do để tin rằng tay bác sĩ có một mối quan tâm trong việc ngăn cản việc hôn nhân của con gái riêng của ông ta, một ảo giác lúc hấp hối liên quan đến một dải băng, và, cuối cùng, sự thật rằng Quý Chị Helen Stoner đã nghe được một tiếng kim loại va đụng, thứ có thể đã được gây ra bởi một trong những thanh kim loại mà phong bế mấy tấm cửa chớp rơi trở lại vị trí của nó, tôi nghĩ rằng có một cơ sở tốt để nghĩ rằng bí ẩn có thể được làm sáng tỏ trong suốt những đường hướng đó."
"Nhưng thế, thì, những người giýp-si đó đã làm gì?"
"Tôi không thể hình dung ra."
"Tôi thấy có nhiều ý đối nghịch với bất kỳ lý thuyết nào như vậy."
"Và tôi cũng thấy thế. Đó chính xác vì lý do đó mà chúng ta sẽ đi đến Stoke Moran hôm nay. Tôi muốn xem liệu những ý đối nghịch đó đủ sức mang lý thuyết của tôi xuống mồ, hoặc giả thử chúng có thể được lý giải ngay. Nhưng chuyện quái quỷ gì diễn ra đây!"
Câu nguyền bắn vọt ra khỏi đồng bạn của tôi bởi sự thật là cánh cửa phòng chúng tôi đã bị mở toang ra, và rằng một người đàn ông to khủng đã lấy thân mình choán hết các vùng sáng. Bộ trang phục của ông ta là một hỗn hợp kì quái giữa nhà chuyên môn và việc nông nô, đội một chiếc mũ chóp đen, một cái áo khoác dạ dài, và một đôi ghệt bảo hộ chân cao cổ, cùng một cái roi ngựa đung đưa trong tay ông. Ông ta cao đến mức cái mũ thực ra đã va phải thanh ngang của ngưỡng cửa, và chiều rộng cơ thể ông ta trông như bành ra từ phía này sang phía kia. Một gương mặt lớn, hằn lên bởi cả ngàn nếp nhăn, cháy vàng bởi ánh nắng mặt trời, và in dấu bởi mọi khao khát quỷ quyệt, quay sang hết người này đến người kia trong chúng tôi, khi đôi mắt sâu, vàng-ủng, và cái mũi cao, gọn, xương xẩu, cho ông ta phần nào vẻ tương tự với một loài chim săn mồi già hung tợn.
"Trong các anh ai là Holmes?" cái hiện diện ma quỷ này lên tiếng hỏi.
"Tên tôi, thưa ngài; nhưng ông đang chiếm tiện nghi của tôi," đồng bạn của tôi nói
nhỏ.
"Ta là Bác Sĩ Grimesby Roylott, của Stoke Moran."
"Quả vậy, Bác Sĩ," Holmes nói một cách thờ ơ. "Xin mời ngồi."
"Ta sẽ không làm việc gì kiểu thế. Con gái riêng của ta đã ở đây. Ta đã theo dấu nó. Nó đã nói gì với các anh rồi?"
"Có chút lạnh vào giờ này của năm," Holmes nói.
"Nó đã nói gì với các anh rồi?" người đàn ông già la lên một cách hung bạo.
"Nhưng tôi nghe rằng loài nghệ tây rồi sẽ sớm nở," đồng bạn của tôi tiếp tục một cách điềm tĩnh.
"À ha! Cố ý làm ta chán ngấy, hả? vị khách mới của chúng tôi nói, bước lên một bước và rung lắc cái roi ngựa của ông ta. "Ta biết ngươi, đồ vô sỉ! Ta đã nghe về ngươi trước đây. Ngươi là Holmes, kẻ chõ mũi."
Bạn tôi mỉm cười.
"Holmes, tay phá thối!"
Nụ cười của anh nở rộng.
"Holmes, thằng xấc láo của sở cảnh sát Scotland Yard!"
Holmes cười khúc khích một cách thật lòng. "Đoạn nói chuyện của ngài là giải trí nhất," anh nói. "Khi ông ra ngoài hãy đóng cửa, vì sắp có cơn gió lạnh lùa đấy."
"Ta sẽ đi khi ta nói xong. Các ngươi đừng dại chõ mũi vào việc của ta. Ta biết rằng Quý Cô Stoner đã ở đây. Ta đã theo dấu nó! Ta là một kẻ nguy hiểm để mà chống đối! Xem đây." Ông ta bước nhanh về phía trước, thu lấy cây cời lò sưởi, và bẻ cong nó thành một vòng cung bằng đôi bàn tay to khủng ngăm nâu.
"Xem đấy mà giữ cho bản thân tránh khỏi cú siết của ta," ông ta gầm gừ, và liệng que cời lò bị vặn vẹo vào lò sưởi rồi sải bước ra khỏi phòng.
"Ông ta có vẻ là một người rất dễ thương," Holmes nói, cười lớn. "Tôi không quá to con, nhưng nếu ông ta lưu lại tôi có thể cho ông ta thấy rằng nắm tay siết của tôi không yếu hơn của ông ta là bao." Khi anh nói anh nhặt cây cời lò lên và, bằng một nỗ lực đột ngột, bẻ thẳng nó ra trở lại.
"Tưởng tượng xem ông ta đã xấc láo thế nào khi lẫn lộn giữa tôi với lực lượng thám tử phổ thông! Việc này đem lại chút hứng khởi cho cuộc điều tra của chúng ta, dù sao thì, và tôi chỉ tin rằng người bạn nhỏ bé của chúng ta sẽ không phải chịu hậu quả từ sự bất cẩn của cô ấy trong việc để cho kẻ vũ phu này theo sau cô. Và giờ, Watson, chúng ta nên gọi bữa sáng, và sau đó tôi sẽ đi bộ xuống Tòa Nhà Thông Luật, nơi tôi mong là sẽ lấy được vài dữ kiện mà có thể giúp chúng ta trong vấn đề này."
Lúc đó đã gần một giờ chiều khi Sherlock Holmes trở về từ chuyến du hành của mình. Anh nắm trong tay mình một tệp giấy màu xanh dương, được viết nguệch ngoạc lên đó bởi các ghi chú và số liệu.
"Tôi đã xem qua di chúc của người vợ đã khuất," anh nói. "Để xác định ý nghĩa chính xác của nó tôi buộc phải tính toán ra mức giá hiện tại của các khoản đầu tư liên quan đến nó. Tổng thu nhập, vào khoảng thời gian người vợ qua đời có hơi ít hơn 1100 bảng Anh, và giờ, qua sự sụt giảm của giá nông sản, không nhiều hơn 750 bảng Anh. Mỗi người con gái có thể yêu cầu khoản thu nhập 250 bảng Anh, trong trường hợp tiến tới hôn nhân. Nó hiển nhiên là, từ đây, rằng nếu cả hai cô gái kết hôn, sinh vật xinh đẹp này sẽ chỉ còn một phần cấp dưỡng ít ỏi, khi thậm chí một trong số họ là đủ để gây tổn hại đến ông ta ở mức độ rất nghiêm trọng. Lao động vào buổi sáng của tôi đã không bị lãng phí, vì nó đã chứng minh rằng ông ta có động cơ mạnh mẽ nhất trong việc đứng ngáng đường bất cứ việc gì thuộc về hôn nhân. Và giờ, Watson, việc quá nghiêm trọng để mà chậm rãi, đặc biệt khi ông già đã để tâm rằng chúng ta đang quan tâm đến vụ việc của ông ta; nên nếu anh sẵn sàng, chúng ta nên gọi một cuốc xe và chạy đến Waterloo. Tôi sẽ rất biết ơn nếu anh nhét khẩu súng ổ quay của mình vào trong túi anh. Một khẩu Eley's Số 2 sẽ là một luận cứ tuyệt vời với mấy quý ông có thể vặn xoắn mấy cây cời lò thành nút thắt. Món đó và một cái bàn chải là, tôi nghĩ, tất cả những gì ta cần."
Tại Waterloo chúng tôi đã may mắn khi kịp bắt lấy chuyến tàu đi Leatherhead, nơi chúng tôi thuê một cỗ xe một ngựa tại lữ quán của ga tàu và lái đi tầm bốn hay năm dặm qua những con đường đáng yêu ở Surrey. Đó là một ngày hoàn hảo, với mặt trời bừng sáng và một vài đám mây bềnh bồng trên bầu trời. Những cái cây và hàng rào bên đường chỉ vừa mới nhú những mầm xanh đầu tiên, và không khí ngập tràn mùi dễ chịu của đất ẩm. Với tôi chí ít thì đây có một sự tương phản kì lạ giữa cảnh xuân ngọt ngào đầy hứa hẹn và điệp vụ hung hiểm mà chúng tôi đang can dự. Đồng bạn của tôi ngồi ở phía trước của cỗ xe, tay anh khoanh lại, mũ anh kéo xuống che khuất mắt, và cái cằm anh đổ xuống lên trên ngực, chôn mình vào ý nghĩ sâu sắc nhất. Đột nhiên, dù sao thì, anh giật mình, vỗ lên vai tôi, và chỉ về hướng mấy bãi cỏ.
"Nhìn kia kìa!" anh nói.
Một khuôn viên cây cối rậm rạp trải dài lên một con dốc thoai thoải, dày lên thành một khoảnh rừng ở điểm cao nhất. Từ giữa những cành cây nhô ra mấy đầu hồi nhà màu xám và những mái nhà của một dinh thự rất xưa.
"Stoke Moran?" anh nói.
"Vâng, thưa ngài, đó là nhà của Bác Sĩ Grimesby Roylott," người tài xế lưu ý.
"Có vài việc xây dựng đang diễn ra ở đó," Holmes nói; "đó là nơi chúng ta đang đến."
"Kia là ngôi làng," người tài xế nói, chỉ vào một đám những nóc nhà trong vài khoảng xa về phía tay trái; "nhưng nếu các ngài muốn vào nhà, các ngài sẽ nhận ra là đi qua mấy bậc thang ở hàng rào này sẽ nhanh hơn, và tương tự bằng lối đi băng qua những cánh đồng. Ở nơi kia, chỗ mà người phụ nữ đang tản bộ."
"Và người phụ nữ, tôi tưởng là, Quý Cô Stoner," Holmes quan sát, lấy tay che ngang trán cho đỡ chói mắt. "Vâng, tôi nghĩ chúng tôi tốt hơn nên làm như anh gợi ý."
Chúng tôi xuống xe, trả phí, và cỗ xe chạy lọc cọc trên đường trở lại Leatherhead của nó.
"Tôi cũng đã nghĩ về việc đó," Holmes nói khi chúng tôi leo lên bậc thang, "rằng anh tài này nên nghĩ chúng ta đến đây như những kiến trúc sư, hoặc vì công việc cụ thể. Việc ấy có thể chặn việc đồn đại của anh ta. Chào buổi chiều, Quý Chị Stoner. Chị thấy rằng chúng tôi đã giữ uy tín đúng lời chúng tôi nói."
Người khách hàng ban sáng của chúng tôi đã nhanh chóng tiến bước để gặp chúng tôi cùng một gương mặt đã nói lên hết niềm vui mừng của chị. "Tôi đã đợi các anh một cách rất phấn khích," chị thốt lên, bắt tay cùng chúng tôi một cách nồng ấm. "Mọi thứ trở nên thật tuyệt. Bác Sĩ Roylott đã đi thị trấn, và nó ít có khả năng rằng ông ta sẽ quay lại trước buổi tối."
"Chúng tôi đã có niềm vinh hạnh trong việc làm quen với bác sĩ," Holmes nói, và bằng vài lời anh đã mô tả những gì đã xảy ra. Quý Cô Stoner tái đi đến tận môi khi chị lắng nghe.
"Thiên đàng ơi!" chị kêu lên, "vậy là, ông ta theo dõi tôi."
"Việc ấy hiển nhiên."
"Ông ta xảo quyệt đến mức tôi không bao giờ biết được khi nào tôi được an toàn khỏi ông ta. Ông ta sẽ nói gì đây khi quay trở lại?"
"Ông ta phải canh chừng bản thân thì hơn, vì ông ta có thể nhận ra rằng ở đó có ai đó xảo quyệt hơn bản thân đang theo dõi ngược lại mình. Chị phải khóa mình khỏi ông ta đêm nay. Nếu ông ta trở nên hung bạo, chúng tôi sẽ đưa chị đi khỏi đến chỗ dì của chị ở Harrow. Giờ, chúng ta phải sử dụng tốt nhất có thể khoảng thời gian của mình, nên vui lòng đưa chúng tôi lập tức đến mấy căn phòng mà chúng tôi cần khám nghiệm."
Tòa nhà được xây nên bởi đá xám, phủ rêu phong, với phần trung tâm cao và hai bên cánh cong cong, như đôi càng của một con cua, hất ra ngoài ở mỗi bên. Ở mỗi bên của mấy cánh nhà đấy những cánh cửa sổ đã vỡ và được chặn lại bằng mấy chấn song bằng gỗ, trong khi phần mái đôi chỗ khuyết vào, một khung cảnh của sự điêu tàn. Khu vực trung tâm trong tình trạng sửa chữa tốt hơn đôi chút, nhưng khối nhà bên cánh phải thì tương đối hiện đại, và mấy tấm màn che ở mấy cánh cửa sổ, cùng khói xanh dương cuộn lên từ mấy ống khói, cho thấy rằng đây là nơi gia đình cư ngụ. Vài dàn giáo đã được dựng lên tựa vào bức tường cuối, và công trình bằng đá đã được phá thủng, nhưng không có dấu hiệu của bất kì nhân công nào vào khoảnh khắc chuyến viến thăm của chúng tôi. Holmes đi từ từ lên và xuống bãi cỏ không được cắt tỉa và khám nghiệm cùng một sự chú tâm sâu sắc phía ngoài của mấy cánh cửa sổ.
"Đây, tôi hiểu là, thuộc về căn phòng mà chị từng dùng để ngủ, căn ở giữa là của chị gái chị, và căn kề bên tòa nhà chính là phòng của Bác Sĩ Roylott?"
"Chính xác như vậy. Nhưng tôi giờ đây đang ngủ tại căn phòng ở giữa."
"Tạm chờ những cải biến, như tôi hiểu. Nhân tiện, ở đó không có vẻ hiện hữu bất kì nhu cầu cấp bách nào cho việc sửa sang bức tường cuối ấy cả."
"Không có lý nào. Tôi tin rằng đó chỉ là cái cớ để dời tôi khỏi phòng của mình."
"À! Điều đó gợi lên đôi điều đấy. Giờ, ở phía bên kia của cánh nhà hẹp này có hành lang chạy suốt mà từ đó ba căn phòng này mở vào. Ở đó có mấy cánh cửa sổ, dĩ nhiên?"
"Vâng, nhưng là mấy cái rất nhỏ. Quá hẹp để ai đó vượt qua."
"Vì hai chị đều khóa cửa của mình vào ban đêm, phòng của các chị đều không thể tiếp cận từ phía đó. Giờ, chị có vui lòng vào trong phòng mình và chấn ngang mấy tấm cửa chớp lại?"
Quý Cô Stoner làm thế, và Holmes, sau một cuộc khám nghiệm cẩn thận qua cửa sổ đang mở, cố gắng bằng mọi cách để ép cửa chớp phải mở ra nhưng không thành công. Không có kẽ nào để một con dao có thể xuyên qua để nâng thanh chắn. Rồi cùng với mấy thấu kính của mình anh kiểm tra mấy cái bản lề, nhưng chúng được làm bằng sắt đặc, xây chắc chắn vào khối đá khổng lồ. "Hừm!" anh nói, gãi gãi cằm mình trong đôi chút bối rối, "lý thuyết của tôi chắc chắn đối mặt vài trở ngại. Không ai có thể vượt qua mấy cánh cửa chớp nếu chúng được chốt. Vậy, chúng ta nên xem nếu phía bên trong ném được chút ánh sáng nào lên vấn đề."
Một cánh cửa bên nhỏ dẫn vào hành lang được quét vôi trắng mà từ đó ba phòng ngủ mở ra. Holmes từ chối khám nghiệm căn phòng thứ ba, nên chúng tôi băng qua nó ngay để đến căn thứ hai, mà ở đó Quý Cô Stoner giờ ngủ trong, và là nơi chị gái chị đã đối diện với số phận của mình. Đó là một căn phỏng nhỏ giản dị, cùng một cái trần thấp và một lò sưởi để hở, theo phong cách của mấy căn hộ thôn quê xưa cũ. Một cái tủ với ngăn kéo màu nâu ở một góc, một cái giường hẹp phủ vải trải màu trắng ở góc còn lại, và một cái bàn trang điểm ở phía tay trái của cái cửa sổ. Mấy món gia dụng này, cùng hai cái ghế đan bằng gỗ, tạo thành toàn bộ nội thất trong căn phòng ngoại trừ một tấm thảm Wilton ở chính giữa. Những tấm ván xung quanh và mặt ốp của mấy bức tường được làm gỗ sồi màu nâu, mối mọt, cũ kĩ và bạc màu đến mức có thể có niên đại từ khi tòa gốc của căn nhà được xây. Holmes kéo một trong mấy cái ghế vào một góc và ngồi im lặng, trong khi đôi mắt anh du hành quanh và quanh và lên và xuống, thu lấy mọi chi tiết của căn hộ.
"Cái chuông ấy liên hệ đến đâu vậy?" sau cùng, anh hỏi khi đang trỏ vào một sợi dây chuông dày mà được treo thả xuống bên cạnh giường, chùm tua rua thực ra nằm rủ lên cái gối.
"Nó nối đến phòng của người quản gia."
"Nó trông mới hơn những thứ khác nhỉ?"
"Vâng, nó chỉ được bố trí đấy một đôi năm trước."
"Chị gái chị yêu cầu nó, tôi cho là?"
"Không, tôi chưa từng nghe về việc chị ấy sử dụng nó. Chúng tôi luôn luôn tự mình đi lấy thứ chúng tôi muốn."
"Thực vậy, nó trông không cần thiết phải bố trí một sợi dây chuông quá đẹp ở đó. Chị sẽ thứ cho tôi trong vài phút khi tôi thỏa nguyện bản thân với cái sàn này." Anh ném mình xuống chúi mặt cùng với mấy thấu kính trong tay mình và bò nhanh nhẹn lui và tới, kiểm nghiệm một cách tỉ mỉ những vết nứt giữa mấy tấm ván. Rồi anh làm việc tương tự với chỗ đồ gỗ mà với chúng căn buồng đã được ốp. Cuối cùng anh đi đến phía giường và bỏ ra chút thời gian cho việc nhìn chằm chặp vào nó và trong việc lia mắt mình tới và lui bức tường. Cuối cùng anh nắm lấy dây chuông trong tay mình và cho nó một cú giật nhanh.
"Sao, nó là đồ ngụy tạo," anh nói.
"Nó sẽ không rung sao?"
"Không, nó thậm chí còn không gắn với cọng dây. Việc này thú vị đây. Chị có thể thấy lúc này là nó được buộc với một cái móc câu chỉ ngay trên nơi mà lối mở nhỏ xíu cho ống thông khí nằm đó."
"Thật vô lý làm sao! Tôi chưa bao giờ nhận ra việc đó trước đây."
"Rất lạ lùng!" Holmes lầm bầm, đang kéo sợi dây. "Có một hay hai điểm rất kì quái quanh căn phòng này. Lấy ví dụ, người xây nó phải là một kẻ ngớ ngẩn thế nào mới mở một ống thông khí vào một căn phòng khác, khi mà, với cùng một vấn đề, anh ta có thể liên kết với không khí bên ngoài!"
"Việc đó cũng khá là gần đây," người phụ nữ nói.
"Được thực hiện khoảng cùng thời gian với dây chuông ư?" Holmes lưu ý.
"Vâng, có vài thay đổi nhỏ đã được thực hiện khoảng thời gian đó."
"Chúng trông có vẻ là những đặc điểm thú vị nhất--dây chuông ngụy tạo, và ống thông khí mà không thông gió. Với sự cho phép của chị, Quý Chị Stoner, chúng tôi nên thực hiện việc điều nghiên căn hộ bên trong."
Căn buồng của Bác Sĩ Grimesby Roylott lớn hơn căn của con riêng ông ta, nhưng được bài trí nội thất sơ sài. Một cái giường xếp cắm trại, một cái kệ gỗ nhỏ đựng đầy sách, phần lớn là sách về kĩ thuật chuyên môn, một cái ghế bành đặt cạnh giường, một cái ghế gỗ đơn giản dựa vào tường, một cái bàn tròn, và một cái két sắt lớn là những thứ chính yếu đập vào mắt nhìn. Holmes đi từ từ quanh và khám nghiệm mỗi thứ và toàn thể bọn chúng với sự quan tâm nhiệt thành nhất.
"Thứ gì ở trong đây?" anh hỏi, vỗ lên cái két sắt.
"Những giấy tờ làm ăn của cha dượng tôi."
"Ồ! chị đã từng thấy bên trong, và sao nữa?"
"Duy nhất một lần, vài năm trước. Tôi nhớ rằng nó chứa đầy những giấy tờ."
"Không có con mèo nào trong nó, ví dụ thế?"
"Không. Một ý tưởng lạ lùng làm sao!"
"Nào, hãy nhìn đây!" Anh nhấc lên một đĩa sữa nhỏ mà nằm trên nóc két sắt.
"Không; chúng tôi không lưu con mèo nào. Nhưng có một con báo và một con khỉ đầu chó."
"À, vâng, tất nhiên rồi! Thì, một con báo thì cũng chỉ là một con mèo bự, nhưng một đĩa sữa thì còn xa mới thỏa mãn được nhu cầu của nó, tôi dám chắc. Có một điểm mà tôi mong xác định được." Anh ngồi xổm xuống phía trước của cái ghế gỗ và khám nghiệm chỗ bệ ngồi của nó với sự chú tâm to lớn nhất.
"Cảm ơn chị. Chuyện vậy là đã giải quyết tạm ổn rồi," anh nói, đứng dậy và bỏ mấy thấu kính vào trong túi của mình. "Xin chào! Đây có vài thứ thú vị đây!"
Thứ đồ đã bắt lấy mắt nhìn của anh là một đoạn dây dắt chó treo trên một góc của cái giường. Cọng dây, dù sao thì, được cuộn lại và buộc chặt để hình thành nên một vòng lặp của roi da.
"Anh nghĩ nó là gì, Watson?"
"Nó là một cái dây dắt chó thông thường nhất. Nhưng tôi không biết tại sao nó cần được buộc lại."
"Việc đó khá là không thường gặp, phải không? À, lỗi tôi! Đấy là một thế giới hung hiểm, và khi mà một người đàn ông khôn khéo chuyển bộ não mình hướng về tội phạm thì đó là điều tệ nhất trong tất cả. Tôi nghĩ là tôi đã xem đủ rồi, Quý Chị Stoner, và với sự cho phép của chị chúng ta nên bước ra ngoài lên bãi cỏ."
Tôi chưa từng thấy gương mặt bạn mình dữ dội đến thế hay trán anh ấy tối sầm đến thế khi chúng tôi rời khỏi hiện trường của cuộc điều tra. Chúng tôi đã đi tới và lui kha khá lần trên bãi cỏ, cả Quý Cô Stoner hay bản thân tôi đều không muốn xen vào những suy nghĩ của anh trước khi anh bừng tỉnh khỏi cơn suy tưởng của mình.
"Việc rất cần thiết, Chị Stoner," anh nói, "rằng chị phải tuyệt đối theo sát lời khuyên của tôi trong mọi chi tiết."
"Tôi chắc chắn sẽ làm như vậy."
"Vấn đề thì quá nghiêm trọng cho bất kì sự chần chừ nào. Sinh mạng của chị có thể phụ thuộc vào sự tuân thủ của chị."
"Tôi cam đoan với anh rằng tôi trong tay anh định đoạt."
"Việc thứ nhất, cả bạn tôi và tôi phải qua đêm trong phòng của chị."
Cả Quý Cô Stoner và tôi nhìn về phía anh trong sự ngỡ ngàng.
"Vâng, nó phải là vậy. Để tôi giải thích. Tôi tin rằng đó là lữ quán của làng ở đằng kia?"
"Vâng, đó là quán Crown."
"Rất tốt. Mấy cái cửa sổ của chị có thể trông thấy được từ đó chứ?"
"Chắc chắn rồi."
"Chị phải nhốt mình trong phòng, vờ như đau đầu, khi cha dượng của chị trở về. Rồi khi chị nghe ông ta đi nghỉ, chị phải mở tấm cửa chớp cửa sổ của mình, mở chốt cửa, đặt đèn của chị ở đó như một tín hiệu cho chúng tôi, và rồi lặng lẽ thoái lui cùng mọi thứ mà chị có khả năng cần đến nhất vào căn phòng mà chị đã từng dùng để ở. Tôi không nghi ngờ rằng, mặc dù còn sửa chữa, chị có thể thu xếp ở đó trong một đêm."
"Ồ, vâng, dễ thôi."
"Việc còn lại chị sẽ giao phó vào tay chúng tôi."
"Nhưng các anh sẽ làm gì?"
"Chúng tôi sẽ qua đêm trong phòng chị, và chúng tôi sẽ điều tra nguyên nhân của thứ tiếng ồn đã làm phiền chị."
"Tôi tin, Ngài Holmes, rằng anh đã xử lý xong trong tâm trí mình rồi," Quý Cô Stoner nói, đặt tay chị lên trên găng tay đồng bạn của tôi.
"Có lẽ tôi đã."
"Vậy thì, vì nỗi xót thương, hãy nói tôi nghe thứ gì là nguyên nhân của cái chết
của chị tôi."
"Tôi ưu tiên việc có những bằng chứng rõ ràng hơn trước khi tôi phát ngôn."
"Anh có thể chí ít nói tôi nghe liệu suy nghĩ riêng của tôi có chính xác, và nếu chị ấy chết bởi vài nỗi sợ đột ngột nào đó."
"Không, tôi không nghĩ vậy. Tôi nghĩ là có thể có một số căn nguyên hữu hình hơn. Và giờ, Quý Chị Stoner, chúng tôi phải rời khỏi chị vì nếu Bác Sĩ Roylott trở về và trông thấy chúng tôi thì hành trình này sẽ trở nên vô nghĩa. Tạm biệt, và hãy can đảm, vì nếu chị làm những gì tôi đã nói chị, chị sẽ được đoan chắc rằng chúng tôi sẽ sớm tống tiễn những mối nguy hiểm đang đe dọa chị.
Sherlock Holmes và tôi không có trở ngại nào trong việc đặt lấy một phòng ngủ và một phòng đón-khách ở lữ quán Crown. Chúng nằm ở tầng trên, và từ cửa sổ của mình chúng tôi có thể nhìn ra cổng đại lộ, và bên phía cánh có người ở của trang viên Stoke Moran. Lúc hoàng hôn chúng tôi thấy Bác Sĩ Grimesby Roylott lái xe ngang qua, cái hình dáng to lớn của ông ta hiện ra lờ mờ bên cạnh vóc người nhỏ bé của chàng trai trẻ đưa ông ta đi. Cậu trai có vài trở ngại nho nhỏ trong việc mở những cánh cửa sắt nặng nề, và chúng tôi nghe tiếng rống khàn đặc của giọng nói ông bác sĩ và thấy cơn nộ khí mà cùng nó ông ta vung vẩy những nắm đấm quả quyết về phía chàng trai. Cỗ xe đi tới, và một vài phút sau chúng tôi trông thấy một nguồn sáng bất chợt bừng lên giữa những cái cây vì cái đèn đã được thắp lên tại một trong các phòng đón khách.
"Anh có biết, Watson," Holmes nói khi chúng tôi ngồi cùng nhau trong bóng tối dần bao trùm, "Tôi thực sự có chút ngần ngại khi đưa anh đi cùng đêm nay. Có một yếu tố nguy hiểm rõ rệt."
"Tôi có thể hỗ trợ gì không?"
"Sự hiện diện của anh có thể là vô giá."
"Vậy thì tôi chắc chắn sẽ đi."
"Anh thật có tấm lòng."
"Anh nói về hiểm nguy. Anh rõ ràng đã thấy nhiều điều trong mấy căn phòng đó hơn những gì hiển thị với tôi."
"Không, nhưng tôi tưởng rằng tôi có thể lập luận thêm một chút nữa. Tôi hình dung rằng anh thấy mọi thứ tôi làm."
"Tôi không thấy điều gì đáng chú ý ngoại trừ cái dây-chuông, và mục đích nó có thể dùng để làm gì thì tôi thú thật là ngoài phạm vi những gì tôi có thể hình dung."
"Anh cũng thấy ống thông khí, phải không?"
"Vâng, nhưng tôi không nghĩ rằng đó thực là một điều rất không bình thường khi có một lối mở ở giữa hai căn phòng. Nó quá nhỏ đến nỗi một con chuột khó có thể vượt qua."
"Tôi biết rằng chúng ta nên tìm một ống thông khí trước cả khi chúng ta đến Stoke Moran."
"Holmes thân mến của tôi!"
"Ồ vâng, tôi thực sự biết như vậy. Anh có nhớ trong phần trình bày của mình cô ấy đã nói rằng bản thân chị gái cô có thể ngửi thấy mùi thuốc lá của Bác Sĩ Roylott. Giờ, tất nhiên việc đó lập tức gợi ý rằng phải có một kênh liên hệ giữa hai căn phòng. Nó chỉ có thể là một đặc điểm nhỏ, không thì nó đã được ghi nhận trong buổi thẩm vấn của điều tra viên. Nhưng tôi luận ra một ống thông khí."
"Nhưng có thứ gì gây hại có thể ở trong đó chứ?"
"Nào, chí ít ở đó có một sự trùng hợp lạ kì về thời điểm. Một ống thông khí được làm, một vòng roi da được treo đấy, và một người phụ nữ ngủ trên giường thì tử vong. Việc đó không kích lên trong anh điều gì sao?
"Tôi vẫn không thể thấy bất kì mối liên kết nào."
"Anh có quan sát được bất kì điều gì rất kì lạ về cái giường đó không?"
"Không."
"Nó đã được nẹp chặt xuống dưới sàn." Anh đã từng thấy một cái giường bị bắt dính như vậy trước đây chưa?"
"Tôi không thể nói rằng tôi đã từng."
"Người phụ nữ không thể di chuyển giường của cô ấy. Cái giường phải luôn luôn ở tại vị trí tương đối với ống thông gió và với sợi dây--hay thứ gì chúng ta có thể gọi nó, bởi vì nó rõ ràng không bao giờ được dùng để làm một cái chuông-báo."
"Holmes," tôi kêu lên, "Tôi dường như thấy lờ mờ điều mà anh đang ám chỉ. Chúng ta chỉ vừa kịp lúc ngăn chặn vài tội ác tinh vi và tồi tệ."
"Đủ tinh vi và đủ tồi tệ. Khi một người bác sĩ đã thực sự đi sai đường thì ông ta sẽ là kẻ đầu tiên trong đám ác nhân. Ông ta có gan và ông ta có hiểu biết. Palmer và Pritchard (những bác sĩ sát nhân tai tiếng thời đó - ND) đều thuộc hàng đầu lĩnh trong chuyên môn của chúng. Tên đàn ông này dấn thân thậm chí còn sâu hơn, nhưng tôi nghĩ, Watson, rằng chúng ta sẽ vẫn có khả năng dấn sâu vào để chặn hắn. Nhưng chúng ta chắc sẽ có đủ nỗi kinh sợ trước khi đêm dài kết thúc; vì Chúa lòng lành, chúng ta hãy thưởng thức một ống thuốc lặng yên và hướng tâm trí chúng ta trong vài giờ đồng hồ đến những điều vui tươi hơn."
Khoảng chín giờ đêm thì ánh sáng giữa những hàng cây đã tắt lụi, và khắp nơi tối đen theo hướng về Dinh Thự. Hai giờ đồng hồ chầm chậm trôi qua, và rồi, đột nhiên, khi vừa điểm mười một giờ, một nguồn sáng lẻ loi bừng lên ngay trước mặt chúng tôi.
"Đó là tín hiệu của chúng ta," Holmes nói, nhảy nhổm dậy lên chân anh; "nó đến từ cửa sổ ở giữa."
Khi chúng tôi băng ra ngoài anh trao đổi một vài lời cùng người địa chủ, giải thích rằng chúng tôi đang có chuyến viếng thăm muộn đến một người quen, và rằng có khả năng là chúng tôi sẽ nghỉ đêm tại đó. Một khoảnh khắc sau chúng tôi đã ra đến con đường tối om, một luồng gió lạnh phả lên gương mặt chúng tôi, và một ánh đèn vàng nhấp nháy phía trước xuyên qua bóng đêm để dẫn đường chúng tôi trên hành trình u ám.
Có đôi chút khó khăn trong việc tiến vào khu đất, vì những lỗ thủng mở to ra vẫn chưa được sửa chữa trên bức tường khuôn viên cũ kĩ. Đưa lối bản thân giữa những hàng cây, chúng tôi đến bãi cỏ, băng qua nó, và vừa chuẩn bị đi vào qua lối cửa sổ thì vọt ra từ đám bụi cây nguyệt quế là thứ trông như một đứa nhỏ gớm ghiếc và dị dạng, kẻ ném mình lên trên cỏ với tứ chi vặn vẹo và rồi chạy vụt đi băng qua bãi cỏ vào trong màn đêm.
"Chúa tôi!" tôi thì thầm; "anh có thấy nó không?"
Holmes tại khoảnh khắc ấy cũng giật mình như tôi. Tay anh khép vào như một gọng kìm trên cổ tay tôi trong cơn chấn động của mình. Rồi anh bật ra một tràng cười thấp và kề môi mình sát tai tôi.
"Một thành viên gia đình hay ho," anh lẩm bẩm. "Đó là con khỉ đầu chó."
Tôi đã quên mất mấy con vật cưng mà ông bác sĩ kiểm soát. Có một con báo, nữa; có lẽ chúng tôi biết đâu sẽ thấy nó trên vai mình vào bất kì lúc nào. Tôi thú nhận rằng tôi cảm thấy dễ chịu hơn trong trí mình khi, sau khi làm theo ví dụ của Holmes và bỏ đôi giày của mình ra, tôi nhận ra bản thân mình bên trong căn phòng ngủ. Người đồng bạn của tôi khẽ khàng đóng cánh cửa chớp, dời cái đèn lên trên bàn, và đưa mắt nhìn quanh căn phòng. Tất cả đều như chúng tôi đã thấy vào ban ngày. Sau đó lần về phía tôi và khum tay mình thành một cái phễu, anh thì thầm vào tai tôi lần nữa thật là nhẹ nhàng đến nỗi mọi việc tôi có thể làm là định rõ được lời lẽ:
"Âm thanh dù nhỏ nhất cũng sẽ là hiểm họa đến kế hoạch của chúng ta."
Tôi gật đầu để thể hiện rằng tôi đã nghe được.
"Chúng ta phải ngồi mà không có ánh sáng. Ông ta sẽ thấy nó qua ống thông khí."
Tôi gật đầu lần nữa.
"Đừng chìm vào giấc ngủ; mạng sống của anh có thể lệ thuộc vào việc đó. Hãy để khẩu súng của anh sẵn sàng trong trường hợp chúng ta sẽ cần đến nó. Tôi sẽ ngồi tại một đầu của cái giường, và anh tại cái ghế đó."
Tôi lấy khẩu súng của mình ra và đặt nó trên góc cái bàn.
Holmes đã mang theo một cây gậy dài mảnh, và đây anh để nó trên giường bên cạnh mình. Kế nó anh đặt một hộp diêm và phần còn lại của một cây nến. Rồi anh tắt đèn đi, và chúng tôi buông mình trong màn đêm.
Làm sao tôi có thể quên cái trải nghiệm canh gác kinh hoàng đó? Tôi không thể nghe âm thanh nào, thậm chí cả một nhịp thở, nhưng tôi biết rằng đồng bạn của tôi đang ngồi căng mắt, trong vòng vài bước chân quanh tôi, chung trong trạng thái lo lắng căng thẳng mà tôi đang chìm vào. Cánh cửa chớp ngắt hết cả những tia sáng nhỏ nhất, và chúng tôi chờ đợi trong bóng tối tuyệt đối.
Từ bên ngoài vọng tới tiếng kêu thỉnh thoảng của một con dạ điểu, và một lần ngay tại cửa sổ của chúng tôi một tiếng rên rỉ kéo dài như tiếng mèo, mà cho chúng tôi biết rằng con báo quả thực đang tự do. Phía xa xa chúng tôi có thể nghe thấy âm điệu trầm của đồng hồ giáo đường, mà vang lên mỗi một khắc của giờ đồng hồ. Chúng trông mới dài làm sao, mấy cái khắc đó! Mười hai giờ điểm, và một và hai và ba, và cứ thế chúng tôi ngồi đợi chờ lặng yên bất kể là gì có thể giáng xuống.
Đột nhiên có một tia sáng nhất thời lóe lên ở hướng ống thông khí, mà đã lịm đi ngay lập tức, nhưng tiếp diễn bởi một mùi nồng của dầu cháy và kim loại nung nóng. Ai đó ở căn phòng kế bên đã thắp lên một cái đèn-lồng-đêm (thắp sáng bằng nến, có cửa chập ở bên để làm tối đi mà không phải tắt nến - ND). Tôi nghe thấy một âm thanh nhẹ nhàng của chuyển động, và rồi tất thảy lại im lặng lần nữa, dù cái mùi trở nên nồng hơn. Trong nửa giờ tôi ngồi với đôi tai căng ra. Rồi đột nhiên một âm thanh khác trở nên nghe được--một âm thanh nhẹ nhàng, mềm mại, như của một luồng hơi nước nhỏ thoát ra liên tục từ một cái ấm đun. Ngay lúc chúng tôi nghe thấy nó, Holmes bật khỏi giường, quẹt một que diêm, và quật một cách cuồng nộ bằng cái gậy của anh về phía dây chuông.
"Anh thấy nó chứ, Watson?" anh la lên. "Anh thấy nó chứ?"
Nhưng tôi chẳng thấy gì. Vào khoảnh khắc khi Holmes thắp đèn lên tôi nghe một tiếng huýt sáo thấp, rõ ràng, nhưng ánh đèn chói chang đột ngột lóa vào đôi mắt mệt mỏi của tôi khiến nó bất khả thi để tôi có thể biết đó là gì mà bạn tôi lại quật một cách hung bạo đến thế. Tôi có thể, dù sao thì, thấy rằng mặt anh trắng bệch như chết rồi và ngập tràn sự kinh hãi và ghê tởm. Anh đã ngừng tấn công và đang đưa ánh nhìn về cái ống thông khí khi đột nhiên vỡ ra từ trong màn đêm tịch mịch tiếng la khủng khiếp nhất mà tôi từng được nghe. Nó bùng lên lớn hơn và hơn nữa, một tiếng la khản đặc của sự đau đớn và nỗi sợ và nỗi tức giận đều cùng trộn lẫn trong một tiếng thét kinh hoàng. Họ nói rằng phía xa xuống dưới làng, và thậm chí cả ở nhà trú của mục sư nơi xa xôi, tiếng thét đó đã dựng đầu những kẻ say ngủ khỏi giường của họ. Nó phóng một sự lạnh lẽo đến trái tim của chúng tôi, và tôi đứng đưa mắt nhìn Holmes, và anh nhìn tôi, đến khi tiếng vọng cuối cùng của nó tan vào sự tịch mịch mà từ đó nó đã khởi lên.
"Điều đó có thể có nghĩa lý gì?" tôi thở dồn dập.
"Nó có nghĩa là mọi thứ đều đã kết thúc," Holmes trả lời. "Và có lẽ, sau tất cả, nó là kết cục tốt đẹp nhất. Lấy súng của anh đi, và chúng ta sẽ bước vào căn phòng của bác sĩ Roylott."
Với gương mặt nghiêm trang anh thắp cái đèn và dẫn đường đi xuống hành lanh. Hai lần anh gõ lên cánh cửa căn buồng mà không có bất kì hồi đáp nào từ bên trong. Rồi anh xoay tay nắm cửa và bước vào, tôi bén gót theo anh, cùng với khẩu súng đã lên cò trong tay mình.
Một cảnh tượng kì dị đập vào mắt chúng tôi. Trên cái bàn một cái đèn-lồng-đêm đứng đó với màn chập mở một nửa, hắt một chùm sáng rực rỡ lên trên cái két sắt, thứ mà cửa của nó đang hé mở. Bên cạnh cái bàn này, trên cái bàn gỗ, Bác Sĩ Grimesby Roylott mặc một cái áo khoác ngủ dài màu xám, cặp mắt cá chân trần lộ ra phía dưới, và đôi bàn chân xỏ vào đôi dép kiểu Thổ Nhĩ Kỳ màu đỏ không có gót. Ngang trên đùi ông ta đặt một tay cầm ngắn với đoạn roi da dài mà chúng tôi đã để ý trong ban ngày. Cằm ông ta hất lên và đôi mắt giữ yên trong một cái nhìn chằm chặp kinh hoàng, cứng đờ về phía góc trần nhà. Quanh trán ông ta là một dải băng màu vàng kì quái, cùng những chấm lấm tấm màu nâu, mà trông có vẻ quấn chặt quanh đầu ông. Khi chúng tôi tiến vào ông ta không tạo nên bất cứ âm thanh hay chuyển động nào.
"Dải băng! Dải băng lấm tấm!" Holmes thì thào.
Tôi tiến một bước lên trước. Trong tức thì cái món đội đầu lạ lùng của ông ta bắt đầu di chuyển, và đây nhô lên phía sau từ giữa tóc của ông ta nhổm lên một cái đầu có hình kim cương và cái cổ phùng lên của một con rắn kinh tởm.
"Nó là một con rắn chêm (adder - ND) của vùng đầm lầy!"; loài rắn chết chóc nhất ở Ấn Độ. Ông ta đã tử vong trong vòng mười giây từ khi bị cắn. Bạo hành, trong thực tế, lại dội ngược lên kẻ bạo hành, và kẻ mưu mô đã rơi vào cái hố chôn mà hắn ta đào cho kẻ khác. Chúng ta hãy tống sinh vật này trở lại hang ổ của nó, và chúng ta tiếp sau có thể đưa Quý Cô Stoner dời đến nơi trú ẩn nào đó và cho cảnh sát của hạt biết chuyện gì đã xảy ra."
Khi anh nói anh thu lấy roi-vụt-chó nhanh khỏi đùi của kẻ đã chết, và quăng nút thòng lọng quanh cổ con bò sát, anh thu lấy nó khỏi cái giá đỡ ác nghiệt của nó và, bưng nó đi trong khoảng cách một cánh tay, ném nó vào trong cái két sắt, thứ anh đóng lại sau lưng nó.
Đấy quả đúng là những sự thật về cái chết của Bác Sĩ Grimesby Roylott, của dinh thự Stoke Moran. Sẽ là không cần thiết để tôi kéo dài câu chuyện vốn đã chạy suốt đến một độ dài quá lớn bằng cách kể làm cách nào chúng tôi báo tin buồn cho cô gái bị dọa sợ, làm cách nào chúng tôi chuyển cô ấy đi bằng chuyến tàu buổi sáng đến với sự săn sóc của người dì tốt bụng ở Harrow, về làm cách nào mà quá trình chậm chạp của cuộc thẩm vấn chính thức đi đến kết luận rằng tay bác sĩ đã đối diện với số phận của mình khi chơi đùa một cách khinh suất cùng con thú cưng nguy hiểm của mình. Còn một chi tiết nhỏ mà tôi chưa biết về vụ việc đã được kể bởi Sherlock Holmes khi chúng tôi trở về vào ngày kế tiếp.
"Tôi đã," anh nói, "đi đến một kết luận hoàn toàn sai lầm mà từ đó thể hiện, Watson thân mến của tôi, việc sẽ luôn luôn nguy hiểm ra sao nếu lý luận từ những dữ kiện thiếu sót. Sự hiện diện của những người giýp-si, và cách sử dụng từ 'dải băng,' mà đã được dùng bởi cô gái tội nghiệp, không nghi ngờ gì, để giải thích cho sự xuất hiện mà cô chỉ kịp bắt lấy một cái nhìn chớp nhoáng bằng ánh sáng từ que diêm của mình, là đủ để đặt tôi vào một dấu vết sai lạc hoàn toàn. Tôi chỉ có thể khẳng định tài cán rằng tôi lập tức tái xem xét vị thế của mình khi, dù sao thì, nó trở nên rõ ràng với tôi rằng bất kỳ mối nguy hiểm nào đe dọa người ngụ cư trong căn phòng đều không thể đến từ cửa sổ hay là cửa ra vào. Sự chú ý của tôi đã tức tốc kéo về, như tôi đã lưu ý với anh, phía ống thông khí này, và về phía sợi dây chuông mà thả xuống dưới giường. Sự khám phá rằng đây chỉ là vật ngụy tạo, và rằng cái giường đã bị nẹp chặt xuống sàn, lập tức mang lại khởi phát cho mối nghi ngờ rằng sợi dây ở đó như một cái cầu nối cho thứ gì đó băng qua cái lỗ và tiến đến cái giường. Ý tưởng về một con rắn tức khắc xuất hiện trong tôi, và khi tôi cặp đôi nó cùng hiểu biết của mình rằng tay bác sĩ được trang bị một nguồn cung những sinh vật từ Ấn Độ, tôi cảm thấy rằng có khả năng tôi đã đi đúng hướng. Cái ý tưởng của việc dùng một loại độc chất mà không thể có khả năng được khám phá bởi bất kì cuộc kiểm thử hóa học nào cũng chỉ là thứ sẽ xuất hiện nơi ý nghĩ một tay đàn ông thông thạo và tàn nhẫn mà đã được huấn luyện ở phương Đông. Sự nhanh chóng mà một loại độc chất như vậy có hiệu dụng cũng sẽ, từ góc nhìn của hắn ta, là một lợi thế. Cần phải là một điều tra viên có đôi mắt bén nhạy, thực sự, mới có thể phân biệt được hai vết cắn nhỏ thâm đen mà sẽ chỉ ra đâu là nơi cú cắn đầy nọc độc đã hoàn thành việc của chúng. Rồi tôi nghĩ về tiếng huýt sáo. Tất nhiên hắn phải triệu hồi con rắn trước khi ánh sáng ban ngày bộc lộ nó với nạn nhân. Hắn ta đã huấn luyện nó, có lẽ bằng việc sử dụng chỗ sữa mà chúng ta thấy, để quay lại với hắn khi được triệu hồi. Hắn sẽ đặt nó qua ống thông gió này vào thời điểm mà hắn ta nghĩ là thích hợp nhất, với sự chắc chắn rằng nó sẽ trườn xuống sợi dây và đáp xuống cái giường. Nó có hoặc không thể cắn người cư ngụ, có lẽ cô ấy có thể thoát được mọi đêm trong một tuần, nhưng sớm muộn gì cô ấy cũng sẽ phải trở thành nạn nhân.
"Tôi đã đi đến những kết luận đó trước khi tôi thực sự bước vào căn phòng của hắn ta. Việc điều tra cái ghế của hắn cho tôi thấy rằng hắn có thói quen đứng lên nó, việc tất nhiên là cần thiết để hắn có thể với tới ống thông khí. Sự hiện diện của cái két, đĩa sữa, và vòng dây roi da là đủ để rốt cuộc xua tan đi bất kì mối nghi ngờ nào có thể còn sót lại. Tiếng kim loại va đập được nghe thấy bởi Quý Cô Stoner hiển nhiên gây ra bởi ông cha dượng hấp tấp đóng lại cánh cửa két sắt sau lưng sinh vật trú ngụ tồi tệ của nó. Một khi đã làm xong công tác tư tưởng cho chính mình, anh biết những bước mà tôi thực hiện theo thứ tự để chứng minh vấn đề. Tôi nghe thấy sinh vật rít gió và tôi không nghi ngờ gì anh cũng vậy, và tôi lập tức thắp đèn lên và tấn công nó."
"Với kết quả là điều chuyển nó qua ống thông khí."
"Và cũng cùng với kết quả khiến nó quay lưng với chủ nhân của mình ở phía bên kia. Vài trong số mấy cú nện từ cái gậy của tôi trúng đích và đánh thức bản tính rắn rít của nó, nên rằng nó bay thẳng vào tấn công kẻ đầu tiên nó nhìn thấy. Bằng cách này tôi không nghi ngờ gì gián tiếp chịu trách nhiệm cho cái chết của Bác Sĩ Grimesby Roylott, và tôi không thể nói rằng việc đó có khả năng đè nặng lên lương tâm của chính mình.
